Chương 4
Hai ngày sau, mọi người đang ngồi ăn sáng.
Không khí thoáng đãng, muỗi cũng ít. Tôi nhắc tới chuyện hôm nay phải đi vào
giấc mộng của Tống Ngưng, sửa lại những điều tiếc nuối, xem Tiểu Lam có thể đi
cùng tôi.
Vì đường đến nước Khương quá thuận lợi, nên
anh ta không có cơ hội thể hiện bản lĩnh, thật đáng tiếc cho tấm lòng thành như
vậy. Lần này cùng tôi vào giấc mộng ắt xảy ra rất nhiều chuyện khó lường, anh
ta sẽ có cơ hội cứu tôi khỏi nước sôi lửa bỏng, vừa có thể bù đắp những điều
đáng tiếc anh ta chưa làm được đối với chúng tôi, cũng thực hiện lời anh ta hứa
với tôi cách đây mười sáu ngày bốn canh giờ ba khắc.
Tôi nói xong câu đó, ba người đang ăn nhất
loạt đánh rơi đũa, chỉ có Tiểu Lam phản ứng khá nhanh, đôi đũa mới rơi lưng
chừng đã nhanh tay chộp lại, còn Quân Vỹ và Chấp Túc đành phải gọi người hầu
lấy cho đôi đũa khác. Quân Vỹ ngạc nhiên là bởi thay vì để anh ta cùng tôi đi
vào giấc mộng, tôi lại mời Tiểu Lam, trong khi Quân Vỹ mới là người Quân sư phụ
ủy thác bảo vệ tôi.
Nhưng sự lựa chọn của tôi quả thực cũng có
nỗi khổ riêng. Bởi Quân Vỹ mặc dù được gọi là kiếm khách, nhưng thực chất vẫn
là một tiểu thuyết gia, thường hay nảy sinh cảm hứng trong lúc đối phó với sự
cố trên đường, những lúc đó, anh ta thường quyết định kết thúc cuộc đấu, tìm
một nơi yên tĩnh để viết tiểu thuyết, bỏ quên bạn đường trong trận địa.
Đó là nguyên do tại sao Tiểu Hoàng vốn là
con hổ đã được thuần dưỡng, có lúc còn hung hãn hơn hổ hoang dã. Tiểu Hoàng
cũng không nhớ đã bao lần Quân Vỹ do cảm hứng phát tác đã bỏ quên tôi trong làn
mưa tên bão giáo.
Có thể thấy, nếu mệnh không lớn, tìm một
người hộ vệ như Quân Vỹ rủi ro cũng vô cùng lớn, bởi vì… cảm hứng khó nắm bắt
như vậy, tai nạn… cũng khó nắm bắt như vậy, nếu lựa chọn, ngay Tiểu Hoàng cũng
không lựa chọn Quân Vỹ, huống hồ tôi, một người thân thủ rất bình thường
Mặc dù trong lòng nghĩ vậy nhưng tôi không
thể làm tổn thương lòng tự trọng của Quân Vỹ, suy nghĩ một lát, tôi nói với anh
ta: “Chủ yếu là huynh phải ở lại để bảo vệ cây đàn của muội. Huynh xem, nếu như
mọi người đều đi vào giấc mộng của Tống Ngưng, ai đó thừa cơ đến phá đàn của
muội thì làm thế nào?”.
Quân Vỹ nghe xong mặt sa sầm, suy nghĩ một
lát, ngoái đầu dặn Tiểu Lam: “Tuy chuyến đi lần này mục đích là để A Phất dệt
giấc mộng cho Tống Ngưng. Nhưng cảnh trong mộng, anh và A Phất gặp phải lại là
cảnh thật, bị thương là bị thương thật, chết cũng là chết thật. Mọi sự phải
nhất nhất cẩn trọng, anh chết không sao, nhưng nhất thiết phải bảo vệ A Phất”.
Tiểu Lam không nói gì, đang dùng đũa gắp
chiếc bánh chẻo nhân tôm bóng mỡ cuối cùng trong lồng hấp, tôi nhìn cái bánh
nuốt nước bọt. Đôi đũa dừng lại giữa chừng, đôi mắt đẹp của anh ta liếc về phía
tôi, nửa cười nửa không: “Quân cô nương thích món này?”.
Tôi nhìn theo miếng bánh trên đũa của anh
ta, lắc đầu tiếc nuối. Đôi đũa chuyển hướng, trong nháy mắt chiếc bánh rơi
trúng đĩa của tôi, màu xanh của đôi đũa tre lẫn với màu vỏ bánh xanh bóng. Cách
cầm đũa của anh ta sao mà duyên dáng, nho nhã như một công tử quý tộc được giáo
dưỡng nghiêm cẩn.
Tôi thực sự chẳng thèm thuồng gì cái bánh
đó, chỉ là sở thích ngày trước, bây giờ nhìn thấy không khỏi lưu luyến, nhưng
vì không có vị giác nên có ăn cũng như nhai nến mà thôi, đã vậy không nên lãng
phí, thế là tôi gắp trả vào đĩa anh ta. Lúc đôi đũa của tôi đang ở phía trên
bát canh, Quân Vỹ hét lên: “Các người làm gì vậy, không nghe thấy lời tôi nói
sao?”.
Tôi giật bắn người, chiếc bánh rơi tõm vào
bát canh, Tiểu Lam nhanh tay kéo tôi về phía sau. Chỉ thấy “bụp” một tiếng,
nước canh bắn tung tóe. Quân Vỹ giận dữ nhìn tôi, chiếc áo trắng muốt của anh
ta bắn đầy nước canh.
Tiểu Lam cũng nhìn Quân Vỹ, nói giọng nghiêm
túc: “Lời người anh em dặn dò, tại hạ xin ghi nhớ, tại hạ có chết cũng không hề
gì, nhất định phải bảo vệ Quân cô nương”.
Vỹ nghiến răng: “Không cần bảo vệ cô ta, bây
giờ anh giết chết cô ta cũng được”.
Tôi nói: “Ấy, như thế không hay…”. Tiểu Lam
nhìn tôi nửa cười nửa không, đang định nói thì Chấp Túc nãy giờ im lặng chợt
lên tiếng: “Cô nương lại biết mật la ảo thuật, đã lâu đông lục chưa có ai…”.
Chưa nói hết đã bị Quân Vỹ giận dữ ngắt lời:
“Cô ấy gia cảnh bần hàn, học được chút ảo thuật để kiếm sống, có gì đáng lạ
Mặt Chấp Túc đầy vẻ kinh ngạc.
Tiểu Lam mỉm cười nhìn tôi: “Gia cảnh bần
hàn? Kiếm sống?”.
Tôi nhìn Quân Vỹ, xem xét vẻ mặt của anh ta,
cảm thấy không nên phủ định những gì anh ta xây dựng về tôi, gật đầu: “Đúng…”.
Chấp Túc: “…”.
Tiểu Lam: “…”.
Ăn sáng xong, Quân Vỹ về phòng thay quần áo,
Chấp Túc không biết chạy đi có việc gì, chỉ còn tôi và Tiểu Lam ngồi đợi. Tôi
ngồi trên chiếc ghế gỗ tử đàn hương, suy nghĩ, làm thế nào để dệt giấc mộng
Thẩm Ngạn yêu Tống Ngưng. Giấc mộng do Hoa Tư điệu dệt ra gọi là Hoa Tư mộng,
Hoa Tư mộng chỉ là tái hiện quá khứ. Một Thẩm Ngạn trong tưởng tượng mà Tống
Ngưng nói kỳ thực không tạo ra được.
Tôi và Tiểu Lam nhập vào Hoa Tư mộng của
Tống Ngưng là để thay đổi quá khứ của cô, để ngăn những chuyện đau khổ xảy ra
trong quá khứ, khiến trong giấc mộng cô được sung sướng hạnh phúc, không còn
phiền muộn, có điều vui vẻ thế nào, không phiền muộn ra sao, nếu trong lòng vẫn
còn tham vọng thì đó chính là nguồn gốc khổ đau.
Tôi nghĩ, có lẽ chúng tôi có thể bắt cóc
Tống Ngưng trên chiến trận ở cánh đồng hoang Thương Lộc, không để cô ta đi cứu
Thẩm Ngạn, Thẩm Ngạn lúc đó sẽ chết. Nhưng nếu vậy quá khác so với kỳ vọng của
Tống Ngưng, tôi lại nghĩ, hay là đánh cược một phen?
Đúng lúc đang suy nghĩ miên man thì Tiểu Lam
xen vào, cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi. Anh ta ngắm nghía cây đàn thất huyền
của tôi, một lúc lâu sau, nói: “Quân cô nương nói, có phải nếu cây đàn này bị
hỏng sẽ phiền toái lớn?”.
Tôi trả lời: “Phải”.
Anh ta ngạc nhiên: “Thế nào là phiền toái
lớn? Nếu cây đàn này hỏng nghĩa là Hoa Tư mộng tan vỡ?”.
Tôi lặng người một lúc, không hiểu tại sao
anh ta lại có ý nghĩ đáng sợ như vậy, tôi lắc đầu: “Không phải, chỉ là nếu cây
đàn bị hỏng thì tôi phải bỏ ra hai thù vàng (*) để mua cây đàn mới mà thôi”.
Anh ta nhìn tôi không nói gì.
Tôi cũng nhìn anh ta.
Không gian bỗng nhiên tĩnh lặng.
Đột nhiên đôi mắt đẹp của anh ta dâng lên nụ
cười, nụ cười đẹp đến nỗi khiến lòng tôi đau nhói.
Anh ta cười: “Nhìn Quân cô nương thế này rất
giống một người tôi từng quen”.
Tôi nghe nói vậy thực ra trong lòng không
vui. Giống như hồi tôi ở Thanh Ngôn tông, nghe nói một người họ Lưu sống ở chân
núi muốn vợ vui lòng, mới khen cô ta giống cô đào nổi tiếng Trương Bạch Chi,
kết quả là bị vợ vác xẻng đuổi đánh bảy dặm đường. Mặc dù Trương Bạch Chi đẹp
khuynh quốc khuynh thành, trong khi Lưu phu nhân chỉ cao thước mốt, nặng gần
sáu chục ký.
Thực ra lòng dạ nữ nhi trong thiên hạ phần
lớn đều như nhau, họ thích độc nhất vô nhị không thích khuynh quốc khuynh
thành. Tôi nghĩ, nếu phu quân tương lai của tôi cũng nói một câu như Tiểu Lam
nói hôm nay, tôi nhất định bắt anh ta quỳ rách đầu gối. Nghĩ chán, tôi lại thấy
ý nghĩ đó đúng là thừa, giả sử sau này tôi cũng có đấng phu quân, người đó chỉ
có thể là Quân Vỹ, nhưng con người Quân Vỹ dù có quỳ rách đầu gối cũng không
thể có trí nhớ tốt hơn.
Giờ Thìn, cả đoàn bốn người, cộng thêm tiểu
hổ cùng đi đến thủy đình trên hồ như đã hẹn.
Khí sắc Tống Ngưng đã khá hơn nhiều so với
hai hôm trước. Mái tóc vấn cao, một dải lụa trắng buộc ngang trán ở giữa gắn
mảnh ngọc bích hình trăng khuyết. Tôi mơ hồ cảm thấy đã gặp cô ở đâu đó, nghĩ
mãi, cuối cùng nhớ ra, hai hôm trước qua Hoa Tư điệu tôi đã nhìn thấy cô như
vậy trong đêm tân hôn, hôm nay cô cũng trang điểm như thế, chỉ khác là hồi đó
cô mặc đại hỉ bào đỏ chói, còn hôm nay chỉ là chiếc váy dài trắng muốt giản dị,
toàn thân không hề đeo trang sức.
Tôi nói: “Phu nhân như thế này…”.
Cô ta cười: “Nên sửa sang một chút mới đi
gặp chàng”.
Tôi biết chàng mà cô nhắc tới là ai. Chỉ có
thể là Thẩm Ngạn, người cô yêu. Năm Lê Trang Công thứ mười bảy, một ngày đông
hàn có băng tuyết, trước cửa khẩu Ngọc Lang, Thẩm Ngạn chỉ cần năm chiêu đã
khiến cô ngã ngựa. Trên núi tuyết cạnh cánh đồng hoang Thương Lộc, Thẩm Ngạn
nói với cô: “Nếu cô nương không chê, đợi tại hạ lành vết thương, xin đến quý
gia cầu hôn cô nương”.
Sai lầm lớn nhất trong cuộc đời Tống Ngưng
là chỉ yêu duy nhất một người đàn ông là Thẩm Ngạn. Vì thế một khi mất chàng ta
dường như mất tất cả, đến chết cũng không thể nguôi ngoai. Nhưng nếu cô có
nhiều đàn ông cùng lúc theo đuổi, mất chàng ta bất quá cũng chỉ là giảm bớt
gánh nặng. Lý trí kịp thời không cho phép tôi tiếp tục suy nghĩ lan man, cứ
nghĩ tiếp thì câu chuyện này sẽ biến thành truyện nữ tôn(*) mất.
Tống Ngưng nói với tôi: “Quân Phất, nếu có
thể được, tôi còn mong được đoàn viên với Lạc Nhi, có phải vậy là quá tham lam,
nếu Lạc Nhi còn sống, tháng sau là sinh nhật tròn sáu tuổi, tôi không biết nếu
còn sống đến giờ Lạc Nhi sẽ thế nào, ngày xưa nó đáng yêu vô cùng”.
Tôi liền giở cây đàn ra, an ủi cô: “Tôi đến
đây là để giúp phu nhân thực hiện ước nguyện, tôi sẽ cho mẹ con phu nhân được
đoàn viên. Chúng tôi đi đã, phu nhân hãy ngủ một giấc, khi phu nhân ngủ say,
tôi sẽ trở lại dệt mộng cho phu nhân”.
Tống Ngưng nhắm mắt. Những lời nói cuối cùng
của Tống Ngưng đã củng cố niềm tin cho tôi. Tôi nghĩ, tôi vẫn muốn đánh cược
một lần.
Hồ sen bạt ngàn một màu lá xanh biếc, điểm
xuyết vài bông sen mới hé, người hầu kê giá đàn ven hồ. Tôi thử dây đàn, nhìn
thấy Quân Vỹ đang bịt tai, anh ta không biết tôi không còn như ngày xưa nữa,
ngón đàn của tôi giờ đã khác.
Ngày trước tôi không thích chơi đàn vì không
biết chơi cho ai nghe. Sư phụ đã có tuổi, mỗi lần nghe tôi đàn thường ngủ gật.
Quân Vỹ mỗi lần thấy tôi đàn cũng mang đàn ra gẩy, còn tôi mỗi khi nhìn thấy
những ngón tay anh ta bấm dây đàn lại không ngăn nổi ý nghĩ muốn đập đàn vào
đầu anh ta.
Sau này, Mộ Ngôn xuất hiện, dù tôi không
biết hình dáng, không nhớ giọng nói của chàng, nhưng dáng chàng cúi đầu ôm cây
đàn dưới ánh trăng tôi chưa bao giờ quên, cả những âm điệu du dương tôi chưa
từng nghe. Nhớ đến câu thơ “gửi lòng vào tiếng đàn”, sau này tôi chăm chỉ học
đàn, chỉ là mong được gảy cho chàng nghe.
Giờ Mão hai khắc, mặt trời ló khỏi đám mây,
trải đầy ánh vàng trên mặt đất. Tôi gảy Hoa Tư điệu của Tống Ngưng. Vốn tưởng
cô tính cách can trường như vậy, lại cưỡi ngựa chinh chiến mấy năm, Hoa Tư điệu
của cô tất sẽ như tiếng sắt tiếng vàng tiếng vó ngựa chen nhau, nhưng âm thanh
tuôn ra dưới dây tơ lại âm thầm như nước chảy, đìu hiu thê lương xé gan xé
ruột.
Hoa Tư điệu là hiện thân của cõi lòng, giai
điệu là tính mệnh, từng tiếng đàn như huyết lệ khóc than, không biết trái tim
Tống Ngưng đã tan nát thế nào. Dù can trường đến mấy, cô vẫn là nữ nhi, không
chết ở chiến trường, lại chết trong tình yêu.
Gảy thanh âm cuối cùng, trên mặt hồ sen đã
có sương mù bay lên, làn sương khói nhuốm hồng mê ly mờ ảo như ẩn như hiện, chỉ
có người mang viên giao châu trong cơ thể mới có thể nhìn thấy cảnh tượng kỳ ảo
đó.
Tiểu Lam trầm ngâm nhìn về dãy núi xa, không
biết đang nghĩ gì. Tôi rời cây đàn đứng lên, bước tới kéo tay anh ta. Anh ta
ngạc nhiên nhìn tôi.
Tôi đang định giải thích, Quân Vỹ đã cao
giọng: “Nam nữ thụ thụ bất thân…”.
Tôi nói: “Thụ thụ bất thân cái gì, không kéo
anh ta, làm sao đưa anh ta vào giấc mộng của Tống Ngưng?”.
Tiểu Lam không nói gì.
Tôi vẫn nắm tay anh ta.
Vì tôi không còn là người trần thế nên nam
hay nữ đối với tôi không còn ý nghĩa gì. Nhưng bị Quân Vỹ nhắc nhở nên cũng
không thể không để ý đến suy nghĩ của Tiểu Lam và suy nghĩ của Chấp Túc, nữ hộ
vệ của anh ta. Nhưng ngoài kéo anh ta, không có cách nào khác đưa anh ta vào
Hoa Tư mộng của Tống Ngưng.
Mặt Chấp Túc lộ vẻ kinh ngạc, miệng đang há
ra, rồi dần khép lại. Thấy Tiểu Lam không có ý phản đối, tôi thấy hay là hỏi
thẳng anh ta, cân nhắc một hồi tôi nói: “Tôi kéo tay huynh một lúc, huynh không
để tâm chứ?”.
Anh ta thản nhiên ngẩng đầu nhìn tôi, cặp
lông mày khẽ nhướn: “Nếu tôi để tâm thì sao?”.
Tôi cũng thản nhiên nhìn trả: “Vậy đành đợi
khi chúng ta thoát khỏi giấc mộng của Tống Ngưng, huynh chỉ việc chặt phăng bàn
tay huynh đi là xong”.
Quân Vỹ nói: “Nếu vậy thì tốt, thế mới là
trang nam tử hảo hán”.
Tôi nói: “Tốt cái đầu huynh ấy”.
Tiểu Lam nhếch mép cười: “Nói đùa vậy thôi,
Quân cô nương không để tâm, sao tôi lại để tâm?”.
Nụ cười nhếch mép của anh ta đột nhiên khiến
tôi hơi ngơ ngẩn. Nhưng lúc này đang làm đại sự, không được nghĩ lung tung. Tôi
kéo anh ta cùng nhảy vào quầng sáng màu vàng sương khói mịt mùng trên hồ sen.
Nếu có người đi qua, nhất định sẽ nghĩ chúng tôi nắm tay nhau tự vẫn vì tình,
lại có Quân Vỹ, Chấp Túc, Tiểu Hoàng đứng trên bờ vẫy tay, chẳng khác gì tiễn
biệt, thực không hiểu người ngoài nhìn thấy sẽ nghĩ gì.
Phía sau quầng sáng chính là Hoa Tư mộng của
Tống Ngưng. Đây là cảnh một thị trấn phồn hoa, trên không là vầng mặt trời mùa
đông bạc màu. Xa hơn nữa có thể nhìn thấy đỉnh núi tuyết, tuyết đọng long lanh
in hình trời xanh, giống như những hồ sữa dài trập trùng. Gió lạnh buốt xuyên
qua chiếc váy mỏng lạnh thấu xương.
Viên giao châu có tính hàn, tôi vốn đã sợ
lạnh, lại gặp gió buốt nên hắt hơi liên tục. Mọi việc đã chuẩn bị chu đáo,
nhưng lại quên một điều bây giờ đang là tháng năm đầu mùa hạ, mà trong Hoa Tư
mộng lại là mùa đông tháng chạp. Tôi run lập cập hỏi Tiểu Lam: “Huynh có mang
tiền không, chúng ta đến hiệu quần áo đã”. Chưa nói xong đã thấy hai chiếc áo
khoác chìa ra. Tôi không tin vào mắt mình, ngước nhìn Tiểu Lam. Anh ta dúi
chiếc áo màu hồng vào tay tôi, còn mình mặc chiếc áo màu trắng. Thấy tôi tròn
mắt anh ta nói: “Lúc ăn sáng thấy Quân cô nương nói, khi Thẩm phu nhân cứu Thẩm
tướng quân là mùa đông tôi liền sai Chấp Túc đi chuẩn bị hai chiếc áo khoác,
không ngờ lại đắc dụng”. Tôi ôm chiếc áo, không ngớt lời khen: “Tiểu Lam, huynh
chu đáo quá”.
Anh ta đứng bên, dửng dưng nhìn tôi: “Chu
đáo vừa thôi”. Lát sau lại nói: “Mặc ngược rồi”.
Mặc áo xong, tôi nói với Tiểu Lam ý nghĩ của
mình. Khi chúng tôi tới đây vừa đúng lúc Tống Ngưng tìm thấy Thẩm Ngạn trên
chiến trường đầy xác chết và đã đưa chàng vào hang núi tuyết. Thực ra tất cả
đều do Thẩm Ngạn nhận nhầm người. Mặc dù không dám đảm bảo, sau khi tỉnh dậy,
ánh mắt đầu tiên chàng ta nhìn thấy là Tống Ngưng chứ không phải là Liễu Thê
Thê, liệu chàng có lập tức si mê Tống Ngưng như đã si mê Liễu Thê Thê. Nhưng
phải thử thôi. Tôi phân tích: Thứ nhất, phải khiến thuộc hạ của đại huynh Tống
Ngưng phái đi tìm cô rời khỏi thị trấn, Tống Ngưng mới yên tâm ở lại chăm sóc
Thẩm Ngạn trong y quán. Thứ hai, phải khiến Thẩm Ngạn không gặp được cô gái câm
Liễu Thê Thê trong y quán, mới loại bỏ được khả năng hai người đó đến với nhau.
Tiểu Lam cho rằng làm như thế rất đúng, giết
chết thuộc hạ của đại huynh Tống Ngưng và Liễu Thê Thê là mọi việc sẽ thuận
lợi. Nói ra ý nghĩ ác độc đó trên mặt anh ta vẫn thản nhiên như không, dường
như giết người dễ dàng như giết kiến.
Thực ra tôi cũng thấy như vậy rất giản tiện.
Chỉ có điều giấc mộng do viên giao châu dệt nên, pháp lực của viên giao châu
được tu luyện dựa vào hấp thụ giấc mộng đẹp của con người. Giấc mộng phải đẹp
mới có thể cám dỗ con người, nhưng quá trình cám dỗ đó nếu tùy tiện gây ra cảnh
chết chóc lại bất lợi cho việc tu luyện của viên giao châu. Nói cách khác, giết
Liễu Thê Thê và những người khác trong giấc mộng, sinh mệnh tôi lấy được của
Tống Ngưng có thể giúp tôi sống thêm một năm rưỡi nữa, nhưng nếu không giết bọn
họ, sinh mệnh tôi lấy được của Tống Ngưng có thể giúp tôi sống thêm ba năm. Vì
thế tôi cảm thấy, chưa bất đắc dĩ, không giết người vẫn hơn.
Có thể trong ảo mộng đó, để thực hiện lời
hứa với Tống Ngưng, cuối cùng tôi vẫn phải giết một người nào đó. Nhưng cuộc
trao đổi nào chẳng phải trả giá, chỉ là vạn bất đắc dĩ mà thôi.
Tôi nói với Tiểu Lam: “Hay là chúng ta đừng
chọn giải pháp tàn khốc như vậy, cứ dùng biện pháp mềm dẻo trước đã. Có thể
giải quyết sự việc bằng thương lượng vẫn hơn phải động gươm đao”.
Tiểu Lam trầm tư: “Cô hành sự như vậy, không
sợ lỡ việc sao?”.
Tiểu Lam bỏ mặc tôi, đi thẳng vào tửu quán
bên cạnh. Tôi hỏi người đi đường, biết đó là tửu quán lớn nhất thị trấn. Bước
lên tầng hai, chỉ có cái bàn cạnh cửa sổ còn trống bèn ngồi xuống.
Xưa nay tôi luôn thích những cái bàn cạnh
cửa sổ trong tửu quán, bởi vì trong truyền thuyết, khách lựa chọn ngồi ở vị trí
đó thường là những nhân vật khác thường. Nếu là truyền thuyết tình yêu, khách
ngồi ở đó không hoàng đế cũng vương gia, nếu là truyền thuyết giang hồ, khách
ngồi ở đó không minh sư cũng giáo chủ.
Những nhân vật huyền bí đó đến tửu lầu dùng
bữa hầu như chỉ ngồi bên cửa sổ, những ngón tay thanh tú nâng chung rượu trắng,
để lại cho bàn dân thiên hạ xung quanh nửa khuôn mặt nhìn nghiêng, để họ tha hồ
bàn tán suy diễn.
Tôi nhìn trước nhìn sau, hỏi Tiểu Lam, “Một
tửu lầu lớn thế, sao chỉ có chỗ chúng ta còn trống?”.
Anh ta vừa rót trà vừa hất hất cằm.
Tôi không hiểu ý anh ta, thử đoán, “Lẽ nào
đúng là vị trí trong truyền thuyết chỉ có thể để nhân vật trong truyền thuyết
ngồi, mọi người đa số cảm thấy mình không phải là nhân vật đó, nên mới chủ động
để lại vị trí? Ha, thiên hạ đúng là quá tự giác”.
Nói xong tôi hắt hơi. Tiểu Lam giơ tay chỉ
cửa sổ bên cạnh, “Cánh cửa hỏng, không đóng được”.
Tôi không tin, nhìn anh ta, “Hả?” rồi lại
hắt hơi lần nữa.
Anh ta trao cho tôi chén trà bốc hơi nghi
ngút, chậm rãi nói, “Bên ngoài gió rất to, nếu còn chỗ khác tôi cũng không muốn
ngồi ở chỗ đầu gió thế này”.
Tôi nói, “Cái này…” vừa nói đến đó, lại hắt
hơi lần nữa.
Tiểu nhị nhanh chóng mang thức ăn đến, Tiểu
Lam gọi một hũ rượu hâm nóng, thêm mấy món gì đó tôi cũng không để ý, chỉ vô
tình nghe thấy bánh chẻo nhân tôm vỏ phỉ thúy. Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa xen lời:
“Sáng đã ăn bánh chẻo nhân tôm phỉ thúy rồi, đổi món khác đi”.
Tiểu Lam nói: “Chẳng phải cô rất thích món
này sao?”.
Tôi nói: “Tôi ăn gì cũng được, cái chính là
huynh thôi, huynh thích gì cứ gọi”. Đằng nào tôi ăn gì cũng chỉ có một vị, đó
là chẳng có vị nào hết.
Tiểu Lam ngẩng đầu nhìn tôi, tiểu nhị dẻo
miệng chen vào: “Cô nương đúng là rất tâm lý”.
Tôi gật đầu tán đồng, tiếp tục suy nghĩ. Suy
nghĩ làm sao dụ được thuộc hạ của Tống Diễn đi mà không cần đổ máu, hơn nữa
trong chuyện này việc đầu tiên cần làm là tìm ra thuộc hạ của Tống Diễn trong
trị trấn đông đúc này.
Mặc dù nhờ Hoa Tư điệu của Tống Ngưng tôi có
thể thấp thoáng nhìn thấy bóng họ, chỉ có thể nhận ra mấy người đàn ông to khỏe
vâm váp, lưng hổ tay gấu, nhưng trong thị trấn này đàn ông như vậy rất nhiều,
tôi không thể đến hỏi từng người, “Đại ca, đại ca có phải là binh sĩ nước Lê,
mẹ đại ca gọi đại ca về ăn cơm”.
Làm như vậy đến bao giờ mới tìm được họ.
Rượu được nhanh chóng mang ra, Tiểu Lam đưa cho tôi, đang định đón lấy ủ tay
cho ấm. Anh ta lại cầm chung rượu, vẫn không buông ra, tôi giơ tay lấy, mắt anh
ta như đầm sâu tĩnh lặng: “Tôi chỉ đường cho cô gái kia, cô giận gì chứ?”.
Tôi ngớ ra, không hiểu: “Sao?”.
Anh ta cau mày lạnh lùng: “Lại giả bộ rồi,
tôi ghét nhất cô giả bộ với tôi”.
Tôi chỉ vào mũi mình: “Huynh đang nói với
tôi đấy à, huynh nói cô gái nào…”.
Anh ta ngắt lời tôi: “Cô gái cầm cây thương
vừa rồi, dáng cao cao, áo tím. Từ lúc tôi khen cây thương của cô ta, giọng nói
của cô với tôi bắt đầu lạnh nhạt, còn không thừa nhận mình đang giận, cô giận
gì vậy?”.
Tôi không hiểu, “Giận ư? Tôi đâu có giận”.
Mấy người đàn ông ngồi cách đó vài cái bàn
đột nhiên cười rộ, cùng nói: “Chai dấm ở đâu đổ rồi, người anh em, cô ấy đang
ghen đấy, ai bảo anh lại khen cô gái khác trước mặt cô ấy, ha ha ha…”.
Tôi vẫn không hiểu đầu đuôi thế nào, nhưng
bị họ nói to như vậy, bao nhiêu thực khách trong tửu lầu đều dồn mắt về phía
này. Tôi lẩm bẩm: “Cô nương áo tím, dáng cao cao, cầm cây thương?”.
Anh ta không để ý đến lời tôi, chộp cánh tay
tôi, ánh mắt vừa rồi còn lạnh lùng đột nhiên vui như đang cười: “Ghen thật
sao?”.
Mặt tôi vẫn dửng dưng, giật tay về: “Quả
thực tôi không ghen”.
Tiểu Lam buông tay tôi. Bởi vì bàn ăn bên
cạnh không biết từ đâu xuất hiện một toán người. Toán người đó vận trang phục
theo kiểu người Khương, nhưng giọng nói lại là khẩu âm vùng biên giới nước Lê,
vừa nghe đã biết là trá hình. Một người có vẻ là toán trưởng hướng về phía Tiểu
Lam: “Tiểu huynh đệ nói vừa gặp một cô gái áo tím, tay cầm cây thương, lại còn
chỉ đường cho cô ấy, xin hỏi cô gái đó đi về hướng nào?”.
Kỳ thực, từ lúc phát hiện ra toán người này,
tôi đã lập tức hiểu ý đồ của Tiểu Lam. Cô gái áo tím mà anh ta nói rất nổi bật.
Chỉ cần có duyên gặp một lần, tôi không thể không nhận ra cô ta chính là Tống
Ngưng.
Nếu Tiểu Lam có thể đánh lừa được toán người
đi tìm Tống Ngưng, điệu họ rời khỏi thị trấn thì tốt. Đang nghĩ như vậy, quan
sát biểu hiện của Tiểu Lam tôi hết sức ngạc nhiên. Lúc này mặt anh ta đầy cảnh
giác, hỏi mấy người kia: “Cô gái áo tím đó có quan hệ thế nào với các vị? Các
vị định làm gì?”. Giống như anh ta quả đã từng gặp cô gái áo tím đó, tuy chỉ
thoáng qua, nhưng vô cùng ngưỡng mộ cô, sợ những người đó có ý đồ gì với cô nên
muốn bảo vệ cô.
Toán người nhìn nhau, toán trưởng nói vẻ bối
rối: “Quả thật không dám giấu, cô nương áo tím mà tiểu huynh đệ đã gặp chính là
tiểu thư nhà chúng tôi bỏ nhà đi. Tiểu thư bỏ đi, thiếu gia chúng tôi rất lo
lắng, phái mấy huynh đệ bọn tôi đi tìm. Tiểu thư đi về hướng nào, rất mong tiểu
huynh đệ chỉ giúp”.
Lòng tôi thầm giục, nói đi, nói đi, nói, chỉ
bừa một hướng nào đó để họ rời đi, nhưng mặt Tiểu Lam lộ vẻ phân vân. Nghĩ một
lát, tôi lập tức hiểu ra, thâm tâm anh ta chắc cũng đang muốn nói một địa chỉ
nào đó để bọn họ rời khỏi thị trấn, nhưng vẫn cố nén để họ khỏi nghi ngờ, để họ
tin là anh ta nói thật. Kinh nghiệm ở đời cho thấy, bộ dạng càng thật thà càng
dễ đánh lừa người khác.
Đối phương quả nhiên tin lời, trịnh trọng
nói: “Mấy huynh đệ chúng tôi đến đây chỉ là để tìm tiểu thư, tiểu huynh đệ yên
tâm, nếu cô nương áo tím đó không phải là tiểu thư nhà chúng tôi, chúng tôi
cũng không làm khó cô ấy, nếu không giữ lời, chúng tôi sẽ bị sét đánh chết”.
Tiểu Lam nhìn người đó vẻ đắn đo, mãi sau
mới nói: “Đã vậy, nếu cản trở các vị đi tìm người nhà, tại hạ cũng có lỗi… Một
canh giờ trước, chúng tôi có gặp một cô nương áo tím ở chân núi Thạch Môn, cô
ấy hỏi thăm một kiếm khách họ Kinh trên núi Thang, nói là cần đến thăm kiếm
khách đó, hỏi đường lên núi Thang đi thế nào”.
Chỉ một câu ngắn ngủi nhưng đã bao hàm bao
nội dung, phản ánh sự giằng co trong lòng, sự đắn đo giữa nói và không nói,
trong đó có nỗi hoang mang bởi cuối cùng đã nói ra, còn cả sự bất lực khi nói
ra không biết hậu quả sẽ thế nào. Anh ta thực hiện hoàn hảo vai diễn của mình,
không được xem thật đáng tiếc.
Anh ta vừa nói xong, toán trưởng rên lên:
“Đích thực là tác phong của tiểu thư”. Anh ta chắp tay cúi chào chúng tôi, cả
toán người tức thì mất hút ở cửa tầng hai tửu lầu.
Nhìn bóng họ xa dần, Tiểu Lam ngồi lặng rất
lâu, trong vẻ băn khoăn dường như phảng phất nỗi buồn, mãi đến khi qua khung
cửa sổ thấy họ đã biến mất ở phía chân trời. Tôi quay đầu, nhìn Tiểu Lam thần
sắc đã trở lại bình thường, đang ung dung rót rượu ra chung.
Tôi cảm thấy mình có rất nhiều điều muốn
hỏi, Tiểu Lam trước mặt khiến tôi hình như nhìn thấy một khuôn mặt khác của anh
ta, tuyệt đối không phải là con người suy sụp chán chường nằm liệt hai ngày sau
khi bị cô gái đâm trọng thương. Sự thay đổi của anh ta giống như trồng cây nho
kết quả lại kết ra bưởi đào.
Tuy nhiên ngẫm nghĩ về con người anh ta lại
cảm thấy mặc dù hơi ngạc nhiên, nhưng cũng chẳng có gì không thỏa đáng, giống
như cây nho kia kết ra bưởi đào chứ không phải là sầu riêng hoặc thanh long.
Tôi ngồi đối diện với anh ta, giả vờ hỏi: “Núi Thạch Môn, núi Thang, hình như
huynh rất thuộc địa hình ở đây?”. Tiểu nhị bưng lên món gà rưới nước gừng, anh
ta vừa quan sát nước gừng chuyển màu vừa nói: “Bảy năm trước tôi có nghe nói về
trận chiến Thương Lộc, nhân lúc rảnh rỗi đến đó tham quan, cũng tìm hiểu tình
hình xung quanh”. Tôi nói: “Vậy sao huynh biết thuộc hạ của Tống Diễn nhất định
ở tửu lầu?”. Anh ta nhấc chung rượu ung dung nói: “Họ đến đây làm việc công, lộ
phí dùng bạc công, đúng vào bữa trưa, tất nhiên là sẽ đến tửu lầu nổi tiếng nhất
thị trấn. Cô đã thấy ai đi làm việc công lại tiết kiệm tiền cho ngân khố triều
đình chưa?”.
Tôi ngẫm nghĩ, đúng là như vậy.
Lúc tôi là công chúa nước Vệ, được phụ vương
phong hiệu là Văn Xương, theo lời đồn đã trở thành người thông minh nhất trong
Vệ vương thất. Mặc dù lời đồn đa phần không có thật, nhưng nhưng trong vương
cung, so với mọi người tôi cũng có phần tự hào về trí thông minh của mình.
Nhưng hôm nay so với Tiểu Lam, lập tức cảm thấy kém hơn nhiều, lẽ nào chứng tỏ
nước Vệ diệt vong không phải là do thiên tai địch họa, tất cả đều do vương thất
kém người tài?
Tiểu Lam nói: “Vẻ mặt thế này, cô đang nghĩ
gì vậy?”.
Tôi nói: “Đang nghĩ rất nhiều truyền thuyết
thực ra không phải như vậy mà chỉ là do người ta đồn thổi, truyền khẩu rồi
thành mà thôi. Truyền thuyết hoàn toàn không xảy ra trong hiện tại, chỉ xảy ra
trong quá khứ hoặc tương lai, dưới dạng hư cấu, thực ra không có ý nghĩa, tất
cả đều là giá trị ước đoán sai lầm. Nhưng càng sai lầm dường như giá trị càng
lớn, mà thực tế giá trị quả nhiên càng lớn…”.
Tiểu Lam như không hiểu. Tôi nói: “Thực ra
là…”.
Anh ta ngắt lời tôi: “Ăn bánh chẻo đi đã, ăn
rồi hãy nói”. Thế là chúng tôi bắt đầu ăn bánh chẻo.
Nhưng ăn xong thì tôi lại quên mất định nói
gì tiếp.