Chương 1
Hôm đó trời nắng đẹp, chúng tôi rời nước
Khương, vượt qua dãy núi Thương Lan vào biên giới nước Trịnh.
Mộ Ngôn định hôm sau sẽ đi, chàng nói nhà có
việc gấp gọi về, ân tình nợ tôi ngày sau chàng sẽ trả.
Thực ra, Mộ Ngôn không nợ nần gì tôi, nếu
còn nhớ, chàng sẽ hiểu ra món nợ giữa chúng tôi là như thế này: Tôi nợ chàng
trước, nợ hai tính mạng, vừa rồi cứu mạng chàng một lần, coi như đã đền được
một tính mạng, vẫn còn nợ chàng một mạng nữa, là tôi phải trả chàng, chứ không
phải chàng phải trả tôi, nhưng rõ ràng chàng không nhớ. Thực ra điều đó cũng
chẳng có gì, nữ nhi mười tám biến, tôi hôm nay khác hẳn ba năm trước, lại luôn
đeo mặt nạ, chàng không nhận ra cũng là chuyện thường.
Tôi nghĩ, tôi yêu chàng ba năm, không ngờ
đời này lại được gặp chàng lần nữa, ông trời đã cho chúng tôi cơ hội trùng
phùng, nhưng lại ở hai đầu sinh tử, thật quá đau lòng. Nhưng như thế cũng tốt,
đối với chàng coi như không có chuyện gì xảy ra, cũng không có gì kết thúc, đối
với tôi, tất cả đã xảy ra, tất cả đã kết thúc. Chút tình giữ trong lòng hôm nay
chẳng qua là hoài niệm của vong hồn, không phải là thứ hiện hữu trên đời, lưu
luyến mấy cũng chẳng ý nghĩa gì.
Chỉ có điều vẫn không thể nào quên, vừa nhắm
mắt lại hiện ra trong đầu, chỉ toàn hình ảnh chàng cúi đầu ôm cây đàn trong
hang núi Nhạn Hồi, mặt nạ màu bạc, áo dài đen, tay bấm dây tơ, tiếng đàn tuôn
chảy dưới ánh trăng, nhặt khoan như tiếng suối lúc êm đềm lặng trôi, lúc ào ạt
trút đổ.
Tôi nghĩ, tôi phải để chàng lưu lại gì đó
cho tôi, gì cũng được, coi như là kỷ niệm.
Mùa hè ngày dài, mãi mới vào đêm. Tôi cầm
một bình rượu, bồi hồi đi tìm chàng giả bộ chẳng có gì suy nghĩ vẩn vơ, đi tìm
chàng là do muốn uống rượu ngắm trăng, còn chàng được lựa chọn, thuần túy là vì
có lẽ đêm nay chúng tôi tương đối có duyên.
Chàng ngồi hóng mát trong sân quán trọ, trên
ghế đá có bình rượu, tự rót uống một mình. Tôi đi đến, để bình rượu trong tay
sang một bên, nhìn chàng: “Uống một mình thật vô vị”.
Chàng ngẩng đầu: “Cô muốn uống cùng tôi?”.
Tôi nhìn chung rượu bằng gốm trắng trong tay
chàng: “Mộ Ngôn, trước khi chia tay, huynh gảy một khúc đàn cho tôi nghe đi”.
Chàng ngạc nhiên nhìn tôi, không nói gì, để
chung rượu xuống hỏi: “Muốn nghe khúc gì?”.
Tôi nghĩ một lát: “Cũng không có khúc nào
đặc biệt muốn nghe”.
Chàng giơ tay vẫy Chấp Túc đứng phía xa,
ngoái đầu nói với tôi: “Vậy thì…”.
Tôi ngồi xuống, ngắt lời: “Vậy thì cứ chơi
khúc nào huynh biết”.
“…”.
Chấp Túc nhanh chóng mang đàn đến, để trong
đình hóng mát. Xung quanh đình, bà chủ quán trọ trồng đầy hoa thiên ngưu, từng
đám lớn tắm ánh trăng, từ màu trắng chuyển sang hồng, lan tràn như mây trắng
nhuốm ánh hồng. Tôi cúi nhìn Mộ Ngôn, chàng ngồi giữa áng mây hồng đó, khuôn
mặt không đeo mặt nạ đẹp như thiên thần, ngón tay dài mảnh, nhàn tản đặt trên
dây đàn, đầu hơi ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười: “Nếu chơi hết các khúc tôi biết,
e là đêm nay cô không ngủ được”.
Tôi không nói gì, lòng thầm nghĩ, em có thể
suốt đời ngồi nghe chàng đàn.
Tiếng đàn vang lên, là một khúc tôi chưa
từng nghe, tôi gục đầu trên chiếc bàn tròn ba chân bên cạnh, tay chống cằm hỏi:
“Mộ Ngôn, huynh chưa lập gia thất chứ?”.
Khúc nhạc hơi ngừng, chàng khẽ nghiêng đầu,
ậm ừ một tiếng, “Chưa”.
Tôi nói: “Huynh có muốn lấy một người đã
chết làm vợ không?”.
Chàng dừng tay đàn, ánh trăng mờ tỏ chiếu
lên khuôn mặt thiên thần, đẹp đến sững sờ.
Tôi lấy hết can đảm nói với chàng: “Cô gái
đó cũng khá đẹp, tính tình cũng được, các vị trưởng bối đều thích cô ấy, cưới
về nhà tuyệt đối không có chuyện bất hòa mẹ chồng nàng dâu, hơn nữa, cầm kỳ thi
họa cũng biết ít nhiều, tuyệt đối không để huynh mất thể diện trước thiên hạ.
Ngoài ra, nấu ăn tuy không giỏi lắm nhưng cũng biết làm vài món, chỉ có điều…
chỉ có điều… đã chết…”.
Tôi tự khoe mình một hồi, thầm nghĩ sao mình
có thể mặt dày như vậy, càng tự khen càng thấy không ổn, chàng chống cằm nhẫn
nại ngồi nghe, một hồi lâu sau, dở khóc dở cười hỏi: “Cô định nói tới âm hôn(*)
sao?”.
Tôi không biết, giả sử tôi và chàng thành
hôn liệu có gọi là âm hôn, nhưng cũng không có định nghĩa nào chính xác hơn,
đành ậm ừ gật đầu.
Chàng nhẫn nại nhìn tôi một lát, giơ tay đàn
tiếp, lắc đầu nói: “Không hiểu cô nghĩ gì, không phải cô định mai mối tôi cho
một cô gái đã chết nào đó chứ?”.
Tôi sáng mắt nói: “Chính là thế!”.
Dây tơ đàn phát ra thanh âm run run, chàng
cười: “Đúng là giống chuyện cô thường làm, nhưng Mộ gia chúng tôi không thể
tuyệt hậu, cảm ơn thịnh tình của cô”.
Tôi lại gục trên bàn, nhắm mắt lại, gió đêm
ấm áp là vậy, lại cảm thấy toàn thân lạnh toát. Mặc dù rất hiểu sinh tử khác
nhau, âm dương cách biệt, hôn nhân là không thể, nhưng bất chợt có lúc không
tránh khỏi hy vọng mong manh vào may mắn ngẫu nhiên nào đó, muốn thử một lần,
biết đâu sẽ khác, nhưng cuối cùng chỉ khiến mình càng thêm thất vọng.
Tôi rất muốn nói với chàng, cô gái đeo mặt
nạ chàng đi theo để trả ơn chính là cô bé suýt bị rắn độc cắn chết ở núi Nhạn
Hồi năm xưa, bây giờ đã lớn thế này, luôn ước ao muốn lấy chàng, trên trời dưới
đất tìm chàng, tìm suốt ba năm. Nhưng sao có thể nói ra, cô gái đeo mặt nạ này
quả thực là đã chết.
Đêm đó tôi gục trên chiếc bàn ba chân, ngủ
thiếp từ lúc nào trong tiếng đàn của Mộ Ngôn. Nghe Quân Vỹ nói, lúc canh tư, Mộ
Ngôn bế tôi vào phòng. Nhưng khi tôi tỉnh dậy, chàng đã rời đi. Giống như cái
đêm ở núi Nhạn Hồi ba năm trước, chúng tôi luôn chia tay trong lặng lẽ, bất
ngờ. Nhưng cũng không có tình cảm đặc biệt gì, chỉ có nơi đặt viên giao châu
dường như trở nên trống rỗng.
Nơi tôi định đến là thành Tứ Phương, quốc đô
nước Trịnh.
Thoạt nghe tên đó, cứ nghĩ thành này có lẽ
được xây dựng theo nguyên lý hình học không gian tinh thâm. Thực ra không phải
tên thành là Tứ Phương, chỉ là do dân chúng trong thành đa phần rất thích chơi
mạt chược. Bầu đoàn ba thành viên, tôi, Quân Vỹ và Tiểu Hoàng hân hoan nhằm
thành Tứ Phương thẳng tiến, bởi vì Quân sư phụ cho chim đưa thư báo, đã tìm
được một vụ làm ăn cho tôi ở trong thành, khách lần này nhân thân tương đối đặc
biệt, là một quý phụ sống trong vương cung Trịnh quốc.
Nội địa Trịnh quốc nhiều sông nhiều núi, có
nghĩa phần lớn hành trình chúng tôi đều đi bằng thuyền, nhưng sự có mặt của
Tiểu Hoàng khiến chúng tôi gặp rất nhiều rắc rối, ngày càng ít chủ đò đồng ý
chở chúng tôi, họa hoằn mới tìm được một chủ đò hám tiền, nhưng thường đòi tiền
công rất cao mới được bước lên con thuyền rách của họ. Nghĩ đến chuyện không
thể làm thịt Tiểu Hoàng nướng ăn như đối với con ngựa, đành nghiến răng không
còn cách nào khác.
Nhưng tiền mang theo mỗi ngày cạn một nhanh,
như thế này khó lòng đến được thành Tứ Phương theo dự kiến. Vạn bất đắc dĩ, tôi
và Quân Vỹ đành phải ép chủ đò: “Tiền không có, nhưng mạng thì có, nếu ông
không chở, chúng tôi sẽ thả con hổ, nó sẽ cắn ông chết tươi”.
Không ngờ biện pháp đó lại rất hiệu quả.
Chúng tôi đi hoàn toàn thuận lợi, chỉ có điều, lúc gần đến thành có người báo
quan, bị quan phủ địa phương phạt món tiền lớn, đó lại là khoản tiền lộ phí
cuối cùng của chúng tôi.
Lúc này còn cách thành Tứ Phương năm mươi
dặm, nhanh nhất cũng phải ba ngày mới tới, nhưng trong người chúng tôi đã không
còn một cắc bạc. Quân Vỹ nói trên đường đi vừa rồi anh ta đã sáng tác xong một
cuốn tiểu thuyết mới, nói về sự bạc tình đang rất ăn khách, có lẽ sẽ bán chạy,
có thể thử bán cuốn tiểu thuyết này lấy ít tiền lộ phí. Tôi và Tiểu Hoàng đều
rất vui, cảm thấy hết mưa là nắng, phấn khởi bày sách bên đường rao bán, lòng
đầy hy vọng.
Kết quả không bán được.
Về sau phân tích mới thấy, nguyên nhân chính
là trong sách không có những chỗ mô tả chuyện gối chăn. Nhưng lúc đó chúng tôi
chưa nhận ra điều ấy, chỉ thấy rất bế tắc. Suy nghĩ rất lung, cảm thấy biện
pháp duy nhất… chỉ có để Tiểu Hoàng biểu diễn tài ăn cỏ, trái với bản tính của
loài hổ.
Chính trong quá trình ép Tiểu Hoàng biểu
diễn tài ăn cỏ, chúng tôi gặp được Bách Lý Tấn lên núi hái thuốc trở về, đây là
nhân vật vô cùng quan trọng, mà lúc đó và rất lâu về sau, chúng tôi đều không
biết anh ta thực ra xuất thân từ một gia tộc thánh dược, là cháu ngoại duy nhất
của thánh dược Bách Lý Việt. Đương nhiên cũng có nguyên do, bởi vì anh ta xuất
hiện với bộ dạng hoàn toàn không xứng với họ tộc trứ danh của mình, trên tay
không phe phảy chiếc quạt quý, thắt lưng cũng không đeo kiếm báu, chiếc áo dài
trắng mặc trên người lại loang lổ chỗ đen chỗ trắng, lưng lại khoác chiếc gùi
cũ, không hề có dáng một công tử thế gia, khiến người ta vừa nhìn đã nhận ra là
bậc cao nhân, hoặc là hậu duệ của bậc cao nhân.
Cảnh đó diễn ra vào đúng lúc mặt trời lặn,
chim đang về tổ. Chúng tôi chuẩn bị địa bàn mãi nghệ, hái một bó lớn rau dại và
cỏ để bên đường, Tiểu Hoàng đã được ý tứ buộc chặt vào chiếc cọc tre.
Nông dân đang lục tục vác nông cụ về nhà, đi
qua nhìn thấy cảnh đó tò mò đứng lại, chẳng mấy chốc đã quây kín một vòng.
Mọi người chứng kiến Tiểu Hoàng dáng điệu
khổ sở lép bép nhai một củ cà rốt, nông dân chặc lưỡi khen lạ.
Lúc đó Bách Lý Tấn vất vả chen vào trong,
cúi xuống rất tự nhiên lấy một củ cải trắng to đùng trong đống rau cỏ, ngẩng
đầu nhìn Quân Vỹ: “Này, củ cải bán thế nào?”.
Quân Vỹ ngây người.
Bách Lý Tấn ngắm nghía một hồi, không biết
lý giải thế nào biểu hiện đó của Quân Vỹ, lại cúi đầu lựa chọn một hồi, lấy ra
một củ cà rốt: “Này, tôi mua hai củ cải, anh có thể tặng thêm một củ cà rốt
không?”.
Tôi giương mắt nhìn Quân Vỹ nhướn mày hai
cái, sau đó thản nhiên chỉ vào Tiểu Hoàng đang gặm cà rốt bên cạnh, tỏ ý chúng
tôi đang biểu diễn, không phải bán củ cải.
Bách Lý Tấn nhìn Tiểu Hoàng, nhảy dựng lên:
“Chao, mua củ cải còn được tặng hổ ư?”.
Tôi giương mắt nhìn Quân Vỹ lại nhướn mày
hai cái, nhếch mép: “Không tặng hổ, không tặng hổ”.
Bách Lý Tấn hiểu ý giơ củ cà rốt ở tay phải,
“Ồ, không sao, không tặng hổ thì tặng tôi một củ cà rốt vậy”.
Quân Vỹ lại nhếch mép: “Cà rốt cũng không
tặng!”.
Bách Lý Tấn ngạc nhiên giơ củ cải ở tay
trái: “Tôi không để anh cho không đâu, tôi trả tiền, tôi mua nhiều không phải
để anh kiếm tiền, mà là muốn anh cho thêm một củ cà rốt nhỏ…”.
Tôi đoán Quân Vỹ sắp không chịu nổi rồi, còn
chưa nghĩ xong thì đã thấy một bóng trắng xám xám bay ra khỏi vòng người, Quân
Vỹ nghiêm nghị nhìn Bách Lý Tấn vừa bị ném đi, phủi tay vài cái rồi lau lên áo
tôi.
Đó là cuộc gặp đầu tiên của chúng tôi với
người cháu trẻ nhất trong gia tộc Bách Lý, Quân Vỹ lần đầu tiên thể hiện rõ
nhất dũng khí nam nhi.
Hai ngày sau, chúng tôi tích đủ lộ phí đến
thành Tứ Phương, tạm đủ tiền ăn ở dè sẻn. Tôi nghĩ, lúc này bất đắc dĩ phải
kiếm ít tiền còn được, không nên để Tiểu Hoàng mệt mỏi quá, chỉ cần đến thành
phố là chỗ nào cũng đầy cơ hội kiếm tiền, chẳng hạn có thể để Quân Vỹ bán thân,
nhưng lại một nữa bị báo quan.
Quan phủ sau khi tra xét thấy đúng, bởi
chúng tôi hoàn toàn chẳng làm gì trái pháp luật, nên không thể ra tay, nhưng họ
cũng không chịu tay trắng ra về, cuối cùng phạt tiền chúng tôi với tội danh bắt
hổ mãi nghệ, ngược đãi động vật, số tiền phạt coi như vẫn còn nhân tính, vẫn để
lại cho chúng tôi một ít bạc lẻ làm lộ phí.
Quân Vỹ nói: “Đây nhất định là việc hay ho
do gã tiểu tử nói giọng đàn bà đó làm”. Anh ta đang nói tới Bách Lý Tấn, nhưng
tôi thấy chuyện này chẳng liên quan tới anh chàng đó, bởi tôi thật sự cho rằng,
thực ra anh chàng đó có thể cũng không biết hổ là loài thú hoang ăn thịt hay ăn
cỏ, chưa biết chừng anh ta lại tưởng thiên tính của hổ là ăn củ cải.
Vốn tưởng Bách Lý Tấn chẳng qua là người qua
đường, tôi và Quân Vỹ đều không chú ý, ai ngờ chập tối ngày thứ tư lại gặp nhau
trong một quán trọ duy nhất ở ngoại ô thành Tứ Phương, hơn nữa Quân Vỹ lại nằm
cùng giường với anh ta.
Có duyên như vậy kể cũng hiếm, bởi vì quán
trọ đó quả thật rất nhỏ, khi chúng tôi đến chỉ còn một phòng trống duy nhất. Vì
thanh danh của tôi, đương nhiên tôi và Quân Vỹ không thể ở cùng phòng, nhưng để
anh ta nằm trong kho củi hoặc dưới gốc liễu bên ngoài cũng thật tàn nhẫn.
Nghĩ đến nếu hủy hoại danh dự của tôi nhất
định sẽ bị Quân sư phụ đánh chết, Quân Vỹ mặc dù lòng vô cùng ấm ức cũng đành
ôm chăn chiếu xuống kho củi ngủ tạm một đêm. Tôi và Tiểu Hoàng nhìn anh ta với
con mắt cảm thông. Không ngờ vừa ôm chiếu đi qua cầu thang, một cái bóng trắng
đột nhiên sấn đến: “Này? Cô không phải là người bán củ cải mấy hôm trước ư? Các
người sao vậy?”. Chúng tôi nhìn kỹ, thì ra là Bách Lý Tấn.
Chủ quán trọ nép vào một góc tủ quầy, vừa
chú ý động tĩnh của Tiểu Hoàng vừa giải thích với anh ta. Bách Lý Tấn ngoái
nhìn kỹ một hồi, vòng qua Quân Vỹ đến trước mặt tôi: “Thì ra là thiếu phòng?
Phòng của tôi rất rộng, hay là cô ở tạm cùng tôi một đêm, tiền phòng chúng ta
chia đôi, hi hi hi”. Tôi không kịp cười, Quân Vỹ không biết dùng thân pháp gì,
đã lặng lẽ đứng chen giữa chúng tôi, hiền hậu mỉm cười với Bách Lý Tấn đang
nhăn nhở: “Được, chúng ta chung phòng”.
Bách Lý Tấn thôi nhăn nhở.
Mọi người cùng ăn chung bữa cơm, vậy là quen
nhau.
Ăn xong từng đôi về phòng.
Trước lúc ngủ, mí mắt tôi nháy liên tục, cảm
thấy sẽ xảy ra chuyện gì. Từ nhỏ đến giờ linh cảm của tôi luôn rất hiệu nghiệm,
nếu dự cảm có chuyện xấu xảy ra, bất luận thế nào cũng xảy ra chuyện gì đó
thật.
Lòng tôi thấp thỏm, không thể ngủ được, mắt
trừng trừng thức đến tận bình minh ngày hôm sau, nhưng cả đêm yên tĩnh, không
hề xảy ra bất cứ chuyện gì đặc biệt, chỉ là khi dẫn Tiểu Hoàng xuống lầu ăn
sáng, nhìn thấy Quân Vỹ và Bách Lý Tấn ngồi bên cửa sổ, cảm giác thần thái hai
người hơi kỳ quái. Bách Lý tiểu đệ húp một miếng cháo ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ
mỉm cười, húp miếng nữa lại ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ mỉm cười, còn Quân Vỹ ngoài
sắc mặt hơi trầm, không có biểu hiện gì khác lạ.
Tiểu Hoàng vẫy đuôi quanh quẩn dưới chân
tôi, ngẩn mặt nhìn nửa bát cháo trước mặt, lát sau chớp chớp mắt nhìn Quân Vỹ
vẻ tội nghiệp.
Quân Vỹ sốt ruột: “Hôm nay không có gà nướng
cho mày ăn đâu, chúng ta chẳng còn mấy đồng nữa”.
Tiểu Hoàng ngoẹo đầu không tin.
Bách Lý Tấn cười hề hề ghé lại gần tôi: “Cô
có biết A Trăn là ai không?”.
Đôi đũa đang gắp dưa muối trong tay Quân Vỹ
dừng lại, quay về phía Bách Lý Tấn, hất hàm với Tiểu Hoàng: “Con trai, nếu quả
thực con muốn ăn thịt, ở đây đã có sẵn rồi đấy”.
Tiểu Hoàng đứng dậy liếm nanh thật, Bách Lý
Tấn kêu thét một tiếng nhảy lên bàn, run cầm cập, tay chỉ Quân Vỹ: “Một đêm vợ
chồng, trăm năm ân nghĩa, Quân Vỹ huynh là kẻ vong ân bội nghĩa”.
Miếng cháo trong miệng tôi bắn đầy ra bàn,
đôi đũa trong tay Quân Vỹ rắc một tiếng bị bẻ làm đôi.
Tôi nói: “Hai người…”.
Quân Vỹ thu đôi đũa gẫy, lườm Bách Lý Tấn,
nghiến răng nói “Không có gì, đừng nghe hắn nói bậy”.
Bách Lý Tấn chặc chặc lưỡi, lắc đầu, ngồi
xổm trên bàn, vẻ mặt mờ ám ghé lại gần, tôi hứng thú ghé sát lại.
Anh ta ghé gần tai tôi, “Cô không biết,
người này tối qua nằm mơ, trong mơ huynh ấy…”. Lời chưa dứt bị một miếng bánh
bao chay nhét vào miệng.
Tôi giật mình, vội nhìn sang Quân Vỹ, “Huynh
và Bách Lý tiểu đệ… không phải thấy người ta dung mạo đẹp như hoa mùa xuân, tối
qua trăng lặn sao thưa, mới vô tình…”. Lời chưa dứt cũng bị miếng bánh bao nhét
vào miệng. Quân Vỹ tức tối bảo Tiểu Hoàng: “Con trai, hai thứ giẻ rách này
thuộc về con, bữa sáng của con đó”.
Đúng lúc mâu thuẫn nội bộ sắp gia tăng, thì
từ vị trí cách chúng tôi mấy chiếc bàn vang lên tiếng cười khe khẽ, và một
giọng không biết nói với ai: “Vị công tử phẩm tính hiền đức mà các người nói
chính là Trần thế tử Tô Dự, Tô Tử Khác, người đã chém sạch những trung thần
cuối cùng của Vệ vương thất, sau khi Vệ quốc diệt vong ư?”.
Thấy nhắc đến Vệ quốc, tôi và Quân Vỹ bất
giác đều cùng ngoái đầu lại, phát hiện cách đó mấy bàn có mấy vị khách dậy sớm
đang châu đầu bàn luận quốc sự, người vừa nói là một văn sĩ trung niên.
Văn sĩ vẫn muốn nói tiếp, bị một thanh niên
áo trắng cùng bàn ngắt lời: “Lời huynh thậm sai, người chém đại thần nước Vệ
không phải là thế tử Dự. Khi nước Vệ bị diệt, thế tử được lệnh Trần vương thống
lĩnh Trần quân giám hộ Vệ quốc, không may nhiễm bệnh, đành trở về Hạo thành
dưỡng bệnh. Là tể tướng Doãn Từ đã tiến cử diên uý Công Dương Hạ làm thích sử,
thay thế tử giám quốc. Công Dương Hạ vốn hiểm độc, muốn nhanh chóng lập công
với Trần vương, vừa đến đất Vệ đã giết những cựu thần cuối cùng của Vệ vương
thất có khả năng phản kháng, giết gà dọa khỉ, lại đuổi dân chúng ở Lịch thành
và Yến thành ngay gần kinh đô, đưa dân nước Trần đến ở, khiến dân chúng hai
thành lâm vào cảnh ly tán không nhà không cửa. Lại cho xây thích sử phủ nguy
nga, thế tử lúc đó đang bệnh nặng, hoàn toàn không hay biết. Đến khi bình phục,
thế tử chỉnh đốn quốc sự, chẳng phải đã lập tức phi ngựa đến Vệ quốc, ra lệnh
chém Công Dương Hạ trước thích sử phủ còn chưa kịp hoàn tất, bêu đầu trước môn
thành kinh đô nước Vệ, lấy đó để tạ tội với dân chúng hay sao? Bây giờ dân
chúng nước Vệ đều coi thế tử như phụ mẫu tái sinh, nước Vệ diệt vong chưa quá
nửa năm, dân chúng đã cam tâm tình nguyện quy thuận nước Trần, hai chữ hiền
đức, chẳng lẽ thế tử không xứng?”.
Văn sĩ kia nói: “Chẳng qua là mượn dao giết
người, đầu tiên là mượn tay Công Dương Hạ, làm hết việc mình muốn nhưng không
thể làm, sau đó trở mặt giết người ta mà thiên hạ vẫn phải cảm ơn đại ân đại
đức, quả nhiên là thế tử hiền đức!”.
Mấy người cùng bàn với chàng trai trẻ đập
bàn đứng dậy, “Ông…”. Chủ quán thấy tình hình không ổn, vội vàng chạy đến can:
“Xin đừng bàn quốc sự, xin đừng bàn quốc sự”.
Quân Vỹ gắp dưa muối vào bát tôi: “Nói suy
nghĩ của muội xem?”.
Tôi nghĩ một hồi, cảm thấy chẳng có suy nghĩ
gì, chỉ là thấy lạ về chuyện trong Vệ vương thất vẫn còn những người gọi là
trung thần.
Quân Vỹ nhìn Bách Lý Tấn ngồi xổm trên ghế,
mở miệng định nói, có lẽ cảm thấy một số chuyện không nên nói ra trước mặt
người ngoài. Đắn đo một hồi, cuối cùng cúi đầu tiếp tục húp cháo. Tôi đoán Quân
Vỹ lo lắng tôi vẫn nhớ mình là công chúa nước Vệ, sẽ để bụng, coi Tô Dự là kẻ
thù, định hành thích báo thù.
Nhưng quả thật tôi không có ý nghĩ đó, cảm
thấy để Quân Vỹ yên lòng, tôi vừa khều một sợi củ cải trong dưa muối, vừa thong
thả nói: “Nếu là Tô Dự, chắc muội cũng làm như vậy, minh quân thánh chủ thời
loạn phải là người xảo quyệt hung bạo như hổ, hiền đức chỉ để cho thiên hạ xem,
chỗ nào cần hiền đức thì tỏ ra hiền đức để thiên hạ nhìn thấy là được rồi”.
Bách Lý Tấn không biết từ lúc nào đã buông
chân xuống, ngồi ngay ngắn trên ghế góp chuyện: “Theo cô nói, Tô Dự làm nhiều
việc như vậy chỉ là để tạo một hình ảnh hiền đức với thiên hạ?”.
Tôi lắc đầu: “Nếu đúng vậy, anh ta không
phải là hiền đức, mà là rỗi việc. Chẳng phải Công Dương Hạ đã giết hết cựu thần
của Vệ vương thất rồi sao? Sau đó nước Vệ đã không còn hy vọng phục quốc nữa,
thật đáng chúc mừng. Công Dương Hạ đã di chuyển một bộ phận dân chúng nước Trần
sang sinh sống ở hai thành Lịch, Yến ngay gần kinh đô nước Vệ. Những người đó
bình thường làm ruộng sinh sống, khi nước Vệ xảy ra binh biến có thể trở thành
lực lượng tại chỗ rất hữu hiệu, khỏi phải tốn kém điều binh từ nước Trần đến…”.
Bách Lý Tấn tỏ ra ngạc nhiên. Tôi nghĩ phải
lấy ví dụ chứng minh để anh ta dễ hiểu, nghĩ một lát nói tiếp: “Cũng giống như
các vị đến nước khác mở lầu xanh, mang rất nhiều cô gái đến, nhưng luật nước đó
lại quy định chỉ vào dịp lễ tết mới được kinh doanh lầu xanh, như vậy các vị
hàng ngày phải bỏ tiền nuôi các cô gái đó rất tốn kém, nếu chia cho họ ít
ruộng, để họ tự trồng cấy, nuôi thân, vậy chẳng phải các vị sẽ giảm rất nhiều
chi phí sao?”.
Bách Lý Tấn vò đầu: “Nhưng nếu nước đó chỉ
cho phép vào dịp lễ tết mới được được kinh doanh lầu xanh, vậy chúng tôi tại
sao phải đến một nước xa xôi như vậy để mở lầu xanh?”.
Tôi cảm thấy bất lực, không thể nào chia sẻ
với anh ta được.
Mà lúc đó, văn sĩ trung niên kia hình như đã
được chủ quán đưa ra chỗ khác khuyên giải, bàn bên đó đột nhiên vang lên tiếng
nói, không biết bắt đầu từ lúc nào, tôi chỉ nghe thấy câu sau: “… Nước Vệ diệt
vong đúng là chuyện nực cười, chỉ tiếc cho công chúa Văn Xương tuẫn tiết, nghe
nói công chúa từ nhỏ đã theo học thánh nhân Huệ Nhất tiên sinh, là nữ đệ tử duy
nhất của Huệ Nhất tiên sinh, tài mạo song toàn, nhan sắc khuynh quốc, nguyệt
thẹn hoa hờn, lại thông tuệ tuyệt đỉnh, mười sáu tuổi đã có bao nhiêu công tử
các nước chư hầu đến cầu hôn…”.
Tiếng người khác lại tiếp: “Tại hạ từng
nghe, vào sinh nhật lần thứ hai mươi hai thế tử Tô Dự được nhìn thấy một bức
họa của công chúa Văn Xương, nhìn xong lại nói một câu rất lạ “Ồ, đây là Diệp
Trăn à, đã trở thành thiếu nữ rồi”. Chuyện bí mật lưu truyền trong cung đình
không biết có đáng tin hay không, nhưng theo lời đồn công chúa Văn Xương phẩm
hạnh đoan trang, chim sa cá lặn, cầm kỳ thi họa đều tinh thông, thế tử…”.
Quân Vỹ hỏi tôi: “Sao muội run thế?”.
Tôi lẩm bẩm: “Không biết tại sao khắp người
nổi da gà… không sao đâu, ăn đi ăn đi”.
Quân Vỹ ra hiệu bảo tôi im lặng: “Chuyện
phong nguyệt họ nói hết rồi, bây giờ bắt đầu nói chuyện chư hầu phân tranh,
muội yên lặng, để huynh nghe tiếp”.
Tôi ngạc nhiên: “Sao?”.
Quân Vỹ đáp: “Nói thế nào nhỉ, lúc thiên hạ
đại loạn, thân là nam nhi nên có trách nhiệm”.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta: “Đâu phải huynh
làm cho nó loạn, can hệ gì đến huynh? Thế sự loạn đến đâu chỉ liên quan đến
hoàng đế và các vương hầu, một người ra sức không để nó loạn, một người ra sức
muốn cho nó loạn. À, phải rồi, còn có một tông giáo không rõ có mục đích gì, họ
chỉ mong thế sự đại loạn, nhưng đó thuộc phạm trù tôn giáo, thuộc về ý thức
thần bí, chúng ta không cần quan tâm”.
Quân Vỹ lẩm bẩm: “Huynh quan tâm đến chính
trị…”.
Tôi vỗ vai anh ta: “Người chính trực không
làm chính trị được đâu, nghề đó không hợp với huynh, huynh quan tâm vũ trụ,
viết tiểu thuyết vẫn hợp hơn. Nào, ăn đi, ăn đi”.
Bách Lý Tấn ghé lại gần tôi hỏi: “Tại sao
người chính trực không thể làm chính trị?”.
Tôi giải thích: “Anh thấy đấy, trong thế
giới đại loạn, bản thân chính trị là một sự lệch lạc, nếu anh không lệch lạc,
anh không thể làm gì được nó, trái lại bị nó quật lại”.
Bách Lý Tấn hiểu ra: “Có nghĩa là nói con
người ta nếu không lệch lạc không thể làm chính trị?”.
Tôi nói: “Cũng không phải thế, nhưng không
thể quá lệch, phải vừa lệch vừa thẳng”. Nghĩ một lát, tôi tiếp: “Giống như Tô
Dự…”.
Bách Lý Tấn đăm đăm nhìn tôi rất lâu vẻ suy
tư, sau đó trịnh trọng nói: “Đã có ai nói với cô rằng, cô sinh ra là phận nữ
nhi thật đáng tiếc?”.
Quân Vỹ lạnh nhạt nói: “Chẳng có gì đáng
tiếc, chẳng qua là được thầy giỏi truyền dạy mà thôi”.
Tôi chỉ vào Quân Vỹ nói với Bách Lý Tấn: “Có
nhận ra tôi và huynh ấy đều do một thầy dạy không? Không nhận ra chứ gì? Hai
chúng tôi khác biệt như bây giờ, chẳng liên quan gì tới nỗ lực cá nhân, hoàn
toàn là do vấn đề tư chất”.
Quân Vỹ nhìn tôi vẻ tức tối, hình như đang
âm thầm giở trò gì.
Tôi ngạc nhiên: “Huynh làm gì vậy?”.
Anh ta cũng ngạc nhiên: “Đạp chân muội,
huynh đang đạp thật lực vào chân muội dưới gầm bàn, muội không thấy sao?”.
Tôi càng ngạc nhiên: “Hả? Không thấy”.
Bách Lý Tấn đột nhiên ôm chân nhảy dựng,
miệng la: “Ối ôi, ối ôi, đau, đau, đau quá!”.
Trên đời chẳng có bữa tiệc nào không tàn,
khi mặt trời lên được ba con sào, chúng tôi dùng xong bữa trà, thu xếp hành lý
chia tay với Bách Lý Tấn. Bức tường thành màu vàng phía xa xa đã là kinh đô
nước Trịnh, bức tường thành cao sừng sững lấp lánh dưới nắng hạ. Tôi nghĩ, nếu
nó bằng vàng có phải tốt không, dỡ một hòn gạch là phát tài to, cái chính là
không cần buộc Quân Vỹ bán thân kiếm tiền.
Bước năm bước khỏi quán trọ, Quân Vỹ đã liên
tục ngoái đầu, tôi cũng ngoái lại liếc thấy Bách Lý Tấn khoác một cái bọc trên
lưng đang đứng trước cửa quán trọ, liền thăm dò Quân Vỹ: “Bách Lý tiểu đệ đến
là kháu trai”.
Quân Vỹ lạnh lùng nhìn tôi .
Tôi tiếp tục: “Tối qua huynh và Bách Lý tiểu
đệ có phải đúng là đã…”.
Anh ta không trả lời, lại liếc tôi lần nữa,
liếc xong, lại ngoái đầu . Nhìn phản ứng đó của anh ta, tôi giật mình, che
miệng khẽ hỏi: “Huynh thích người ta thật hả? Huynh lưu luyến người ta phải
không?”.
Quân Vỹ không nghe rõ: “Cái gì?”.
Tôi nói to hơn: “Huynh thích người ta à?
Huynh lưu luyến người ta phải không?”.
Quân Vỹ vẫn chưa nghe rõ: “Gió to quá, muội
nói to lên!”.
Tôi đành nói to: “Có phải huynh thích anh
chàng Bách Lý Tấn kia ~ ~ ~. Huynh liên tục ngoái lại như thế là lưu luyến,
không muốn xa anh ta ~ ~ ~”.
Nói xong vẫn giữ cao độ đó nhắc nhở anh ta,
“Nếu huynh làm bậy, Quân sư phụ sẽ cho huynh nhừ đòn”.
Xung quanh đột nhiên yên lặng, người qua lại
đều dồn mắt nhìn chúng tôi, mặt Quân Vỹ hết xanh lại trắng, lúc sau nghiến răng
nói từng chữ: “Quân Phất, muội đang ngứa da phải không?”.
Tôi theo phản xạ lùi về sau.
Bách Lý Tấn ở cách đó năm bước, sung sướng
chạy lại, nheo mắt nhìn tôi và Quân Vỹ: “Hai người lưu luyến tôi ư? Không sao
không sao, nhà tôi ở ngay cái sân lớn nhất trong ngõ Tâm Thủy thành Tứ Phương,
lúc nào xong việc mời hai người ghé chơi”.
Tôi vui vẻ nói: “Nhất định, nhất định sẽ
đến!”.
Quân Vỹ ôm trán không nói lời nào.
Nói xong mấy câu xã giao với tôi, Bách Lý
Tấn quay sang buồn bã nhìn Quân Vỹ, tay bối rối vò nhàu vạt áo: “Không phải
huynh thích tôi thật đấy chứ? Rõ ràng trong giấc mơ, huynh đã…”.
Quân Vỹ nghiến răng: “Câm mồm, ông không
thích mi”.
Bách Lý Tấn kinh ngạc: “Vừa rồi huynh liên
tục ngoái đầu nhìn tôi”.
Thái Dương Quân Vỹ nổi gân xanh: “Ông không
ngoái nhìn mi, ông ngoái nhìn con trai Tiểu Hoàng, nó vào bếp ăn trộm gà rán,
chưa thấy quay ra”.
Bách Lý Tấn lạ lùng nhìn anh ta: “Tiểu Hoàng
đang đi bên cạnh Quân cô nương đấy thôi!”.
Quân Vỹ ngoái đầu, bắt gặp đôi mắt to long
lanh như nước của Tiểu Hoàng. Dưới cái nhìn nghiêm khắc của Quân Vỹ, Tiểu Hoàng
vừa ngấu nghiến xong một suất gà rán, vội dùng vuốt chân hất xương đầu gà về
phía sau, xong xuôi ngượng nghịu khẽ liếc Quân Vỹ một cái, thấy anh ta vẫn nhìn
chằm chằm, hơi hoảng lùi về phía sau.
Quân Vỹ ngây ra nhìn Tiểu Hoàng một lát, hỏi
tôi: “Nó về lúc nào?”.
Tôi mới vỡ lẽ, thì ra tất cả là hiểu lầm,
đang định nói với anh ta Tiểu Hoàng vừa chui ra từ bụi cây ven đường, Bách Lý
Tấn bên cạnh lại lên tiếng: “Muốn kiếm cớ cũng nên kiếm cái cớ hay một chút,
không cần giải thích, cũng không cần giấu giếm, huynh thích tôi…”.
Quân Vỹ im lặng hồi lâu, nhìn tôi, không
biết nói sao.
Tôi hiểu cái nhìn ngầm cầu giúp đỡ của anh
ta, lập tức xen lời: “Ha ha, Bách Lý Tấn, chuyện này chúng ta tạm thời không
nói, tôi hỏi anh một chuyện”.
Thực ra tôi cũng không biết muốn hỏi anh ta
chuyện gì, chỉ là để chuyển chủ đề, nghĩ một lát, không nghĩ ra chuyện gì có
thể nói với anh ta, đành lấy vụ làm ăn ở thành Tứ Phương Quân sư phụ giao cho
tôi để chống chế: “Vậy, anh, anh là người nước Trịnh, anh có nghe nói đến Thập
Tam Nguyệt, phu nhân của Trịnh Bình vương?”.
Bách Lý Tấn đang yên lặng, ngẩng phắt đầu,
trợn mắt nghĩ một lúc, nói: “Cô định nói là Nguyệt phu nhân?”.
Nghĩ một lát lại tiếp: “Phu nhân đã quy
thiên rồi”.
Tôi ngớ ra: “Không thể, sư phụ tôi nói, mấy
ngày trước còn nhận được thư của phu nhân…”.
Bách Lý Tấn nhíu mày suy nghĩ, lát sau nói:
“À, người cô nói là Nguyệt phu nhân của Bình hầu Dung Tầm, tôi lại tưởng cô
nói…”. Chưa hết câu, lại đổi ý: “… nhưng vừa rồi cô nói Thập Tam Nguyệt?”.
Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi phân vân: “Nguyệt
phu nhân mà cô nói đó không phải là Thập Tam Nguyệt, người đó và phu quân cô ta
đều là giặc, Thập Tam Nguyệt thật sự…”. Anh ta dừng lại: “… Đã chết rồi”.